Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS 2015).
Điều luật gồm 5 khoản, bao gồm:
- Khoản 1 quy định các dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
- Khoản 2, 3, 4 quy định các trường hợp phạm tội tăng nặng;
- Khoản 5 quy định khung hình phạt bổ sung.
Dấu hiệu pháp lý tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Căn cứ Khoản 1 Điều 74 BLHS 2015, tội phạm có các dấu hiệu pháp lý sau:
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.
- Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau. Trong đó, một hành vi được điều luật quy định là thủ đoạn thực hiện hành vi thứ hai. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt.
Hành vi lừa dối là thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối.
Hành vi lừa dối được hiểu là hành vi (cố ý) đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật.
Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra những thông tin giả. Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật.
Hành vi lừa dối như vậy có thể được thực hiện qua lời nói, qua việc xuất trình những giấy tờ sai sự thật hoặc qua những việc làm cụ thể (đưa sai, đưa thiếu, đếm thiếu…)
Hành vi lừa dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện là nhằm thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Lưu ý, những hành vi lừa dối nhằm mục đích khác dù mục đích này có tính tư lợi cũng không phải là hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo có hai hình thức thể hiện cụ thể:
(1) Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã giao nhầm tài sản.
Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên thực tế. Ở thời điểm này, tội phạm được xác định là tội phạm hoàn thành.
(2) Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vị giữ lại tài sản đáng lẽ phải giao cho người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã nhận nhầm tài sản (nhận thiếu, nhận sai loại tài sản được nhận) hoặc không nhận.
Khi người bị lừa dối nhận nhầm hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản bị chiếm đoạt và nó dối đã mất tài sản đó. Ở thời điểm này, tội phạm được xác định là tội phạm phạm hoàn thành.
Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kế tiếp ngay sau hành vi lừa dối. Nhưng cũng có trường hợp giữa hai hành vi này có khoảng cách nhất định về thời gian.
Ở đây cần chú ý tội lừa đảo chiếm sản chỉ coi là hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt đã xảy ra.
Khung hình phạt
Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội mà trị giá tài sản bị lừa đảo dưới 50 triệu đồng.
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Có tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo chiến sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm và trong đó có kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm.
- Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên tiếp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu nhập chính.
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng: Đây là trường hợp tài sản lừa đảo trị giá từ 50 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 200 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 của điều luật).
- Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình hoặc danh nghĩa cơ quan, tổ chức khi thực hiện hành vi lừa dối. Nạn nhân của tội phạm bị mắc lừa là do tin vào chức vụ, quyền hạn của người phạm tội hoặc do tin vào cơ quan, tổ chức mà người phạm tội đã nhận danh.
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã dùng thủ đoạn tinh vi để có thể lừa dối được nạn nhân.
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau đây:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu: Đây là trường hợp tài sản bị lừa đảo trị giá từ 200 triệu đồng trở lên nhưng dưới mức 500 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4 của điều luật).
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng thiên tai hoặc tình trạng dịch bệnh khi thực hiện hành vi phạm tội.
Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên: Đây là trường hợp tài sản bị lừa đảo trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Đây là trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp khi thực hiện hành vi phạm tội.
Khoản 5 của điều luật quy định khung hình phạt bổ sung (có thể được áp dụng) là: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản./.