Các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law) sử dụng thuật ngữ “quyền tác giả”. Trong khi đó thuật ngữ “bản quyền” (copyright) có nguồn gốc từ Mỹ – một nước thuộc hệ thống thông luật (Common Law). Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa sử dụng thuật ngữ “quyền tác giả” xuất phát từ việc gắn chặt mối liên hệ giữa tác giả và tác phẩm mà tác giả đã sáng tạo nên, trong đó đặc biệt chú trọng đến các quyền nhân thân của tác giả.
Quyền tác giả là gì?
Khoản 2 Điều 4 Luật SHTT quy định quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Đặc điểm của quyền tác giả
- Quyền tác giả bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội dung, ý tưởng sáng tạo
Quyền tác giả bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng chứ không bảo hộ bản thân ý tưởng. Ví dụ, bản thân ý tưởng về tình cảm lưu luyến của học sinh cuối cấp ba khi chia tay tuổi học trò không được bảo hộ nhưng nếu ý tưởng đó được thể hiện dưới một hình thức nhất định thì được bảo hộ.
Như vậy, quyền tác giả tập trung bảo hộ hình thức sáng tạo mà không bảo hộ ý tưởng và nội dung sáng tạo. Trường hợp một người nắm bắt được ý tưởng sáng tạo của người khác và dựa vào đó để sáng tác nên một tác phẩm thì tác phẩm này được bảo hộ.
Mặt khác, nếu hình thức thể hiện của một ý tưởng trùng với nội dung ý tưởng đó thì hình thức cũng không được bảo hộ. Không ai bảo hộ một câu nói đơn giản như “tôi ăn cơm” hay “anh yêu em” dưới dạng quyền tác giả. Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm, còn tác phẩm là hình thành một ý tưởng dưới một hình thức nhất định.
- Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm không phân biệt nội dung, chất lượng
Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm mà không đánh giá tác phẩm đó đẹp hay xấu, hay hay dở, đơn giản hay phức tạp. Những điều này không ảnh hưởng tới khả năng bảo hộ quyền tác giả của tác phẩm.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quyền tác giả bảo hộ tác phẩm không phân biệt nội dung, chất lượng không có nghĩa là bất kể nội dung nào cũng đều được bảo hộ bởi quyền tác giả. Bởi Nhà nước không bảo hộ những tác phẩm có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội hay đi ngược lại với những lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.
Khoản 1 Điều 8 Luật SHTT quy định: “[…] không bảo hộ các đối tượng SHTT trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh”. Chẳng hạn, những tác phẩm có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước sẽ không được bảo hộ.
- Tác phẩm cần phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định
Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT quy định: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”.
Tác phẩm có thể được định hình trên giấy, trên các chất liệu tương tự, trên gỗ, trên ổ đĩa, trên các phương tiện kỹ thuật số,… Ví dụ, một bài hát có thể được thể hiện bằng những khuông nhạc trên giấy hoặc bằng bản thu âm.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, các hình thức vật chất định hình tác phẩm ngày càng trở nên đa dạng hơn. Việc định hình tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc viết, in, vẽ, chụp, ghi âm, ghi hình, chạm khắc trên các hình thức vật chất cổ điển như giấy, vải, lụa, gỗ, đá, gốm, sành, sứ, xi măng, thủy tinh, kim loại,… mà còn trên những hình thức khác nhờ vào sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật như trên băng video, băng từ, ổ cứng, đĩa từ, đĩa CD, VCD,DVD, CD-ROM, đĩa vi tính và các loại thiết bị, phương tiện kỹ thuật số khác.
Tại nhiều quốc gia, định hình dưới một hình thức vật chất là điều kiện quan trọng để tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Trái lại, ở nhiều quốc gia khác, định hình dưới dạng vật chất không phải là điều kiện bắt buộc để bảo hộ tác phẩm.
Pháp luật SHTT Việt Nam theo hướng quy định việc thể hiện dưới một hình thức vật chất là một điều kiện tiên quyết để tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Việc yêu cầu tác phẩm phải được định hình dưới dạng vật chất nhất định mang lại nhiều ý nghĩa như để lưu trữ tác phẩm, để tạo thuận lợi cho chủ sở hữu quyền trong việc thực hiện các quyền của mình (như sao chép, phân phối, cho thuê tác phẩm…), để làm chứng cứ khi xét xử các tranh chấp về quyền tác giả.
Tuy nhiên, các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 23 của Luật SHTT vẫn được bảo hộ mà không phụ thuộc vào việc định hình. Ngoại lệ này xuất phát từ đặc thù của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian so với các loại hình tác phẩm khác.
Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là kết quả lao động sáng tạo trí tuệ của một tập thể, một cộng đồng, được gìn giữ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thường là dưới hình thức truyền miệng. Xuất phát từ đặc trưng mang tính truyền miệng nên nếu yêu cầu các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định mới được bảo hộ thì sẽ không phù hợp.
- Tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả phải có tính nguyên gốc
Điều đó có nghĩa là tác phẩm phải do chính tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác. Vì vậy, có thể nói tính nguyên gốc chính là “dấu ấn cá nhân” của tác giả trong tác phẩm.
Tính nguyên gốc là một điều kiện quan trọng để tác phẩm được bảo hộ. Đây không chỉ là tiêu chí để xem xét chấp nhận hay từ chối bảo hộ đối với một tác phẩm, mà còn là một yếu tố quan trọng để định nghĩa tác phẩm.
Không chỉ có tác phẩm gốc (tức tác phẩm đầu tiên) mới có tính nguyên gốc, mà tác phẩm phái sinh (tức tác phẩm được hình thành dựa trên tác phẩm đã có trước như tác phẩm dịch, cải biên, phóng tác, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn) vẫn có tính nguyên gốc của nó.
- Quyền tác giả phát sinh một cách tự động từ khi tác phẩm được sáng tạo mà không cần phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền
Điều này khác với nhiều đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (nhãn hiệu, sáng chế, thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp…) chỉ được pháp luật bảo hộ khi đã đăng ký hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Việc đăng ký quyền tác giả tại Cục Bản quyền tác giả (thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) là không bắt buộc bởi vì tác phẩm sẽ được bảo hộ một cách tự động kể từ khi được sáng tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức nhất định mà không cần phải trải qua bất kỳ một thủ tục đăng ký nào.
Tuy nhiên, việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ giúp tác giả, chủ sở hữu quyền có được một chứng cứ quan trọng khi có tranh chấp xảy ra. Ngoài việc tạo ra một chứng cứ quan trọng chứng minh quyền tác giả trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, việc đăng ký còn có mục đích để thông báo đến cơ quan quản lý Nhà nước về việc tác phẩm được sáng tạo ra và chủ thể đang nắm giữ quyền. Bên cạnh đó, việc đăng ký còn là một sự đảm bảo về mặt hình thức cho các hoạt động chuyển giao quyền giữa chủ sở hữu với các cá nhân, tổ chức khác.
