Cháu nuôi có được hưởng thừa kế từ ông bà nuôi không? Luật sư sẽ giúp bạn giải đáp thắc mắc qua bài viết sau đây.
Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thừa kế thế vị như sau:
Điều 652. Thừa kế thế vị
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Theo đó, thừa kế thế vị là việc các con (hoặc các cháu) được thay thế vào vị trí của bố mẹ (hoặc ông bà) để hưởng di sản của ông bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố mẹ (hoặc ông bà) chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà (hoặc cụ).
Về trường hợp thừa kế thế vị khi có yếu tố con nuôi, Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 653. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.
Như vậy, Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 dẫn chiếu đến Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015 về thừa kế thế vị. Theo đó, trong mối quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi thì con nuôi của người đó sẽ được hưởng thừa kế thế vị nếu cha, mẹ nuôi chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha, mẹ của họ. Trong trường hợp này, người cháu nuôi được thế vào vị trí của cha, mẹ nuôi để hưởng phần di sản từ ông, bà để lại cho cha, mẹ nuôi của mình.
Việc một người nhận nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật trong mối quan hệ cha – con, mẹ – con đã được pháp luật quy định cụ thể, nhưng người con nuôi đó có đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ người nhận nuôi hay không thì cần được làm rõ. Vì trong quan hệ thừa kế thế vị thì mối quan hệ đó phải là quan hệ “ông – cháu”: Cháu được hưởng phần di sản từ ông, bà để lại khi cha, mẹ cháu chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà.
Có thể thấy, quy định về thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi tại Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 còn chung chung; cho đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về hai vấn đề:
Một là, khi người nhận nuôi con nuôi chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với cha mẹ đẻ của họ thì người con nuôi của họ có được thừa kế thế vị không? (Bố mẹ đẻ → con đẻ → con nuôi).
Hai là, khi người con nuôi chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với cha nuôi, mẹ nuôi thì con của người con nuôi (con đẻ hoặc con nuôi) có được hưởng thừa kế thế vị không? (Bố mẹ nuôi → con nuôi → con đẻ hoặc bố mẹ nuôi → con nuôi → con nuôi).
Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định về hệ quả của việc nuôi con nuôi như sau:
Điều 24. Hệ quả của việc nuôi con nuôi
1. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Như vậy, tuy giữa con nuôi với cha mẹ đẻ của người nhận nuôi con nuôi không có quan hệ huyết thống, nhưng khi được nhận nuôi, giữa người con nuôi với cha mẹ đẻ của người nhận nuôi phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa ông bà và cháu đối với nhau.
Dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 68 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau:
Điều 68. Bảo vệ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
…
3. Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật này, Luật nuôi con nuôi, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Thêm vào đó, Điều 78 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định như sau:
Điều 78. Quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi
1. Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
Luật Nuôi con nuôi 2010 có quy định về mối quan hệ giữa con nuôi với gia đình cha mẹ nuôi, trong đó bao gồm nhiều mối quan hệ khác nhau như: Quan hệ giữa con nuôi với cha đẻ, mẹ đẻ của người nhận nuôi; giữa con nuôi với các con đẻ của người nhận nuôi; giữa con nuôi với anh, chị, em ruột của người nhận nuôi…
Tuy nhiên, trong mối quan hệ với những thành viên này của gia đình cha mẹ nuôi, người con nuôi có được coi giống như con đẻ của người nhận nuôi hay không, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như con đẻ của người nhận nuôi hay không, thì luật chưa quy định rõ. Đây là một nội dung quan trọng trong hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, có ý nghĩa thiết thực trong quan hệ nuôi con nuôi, đồng thời cũng là vấn đề dễ xảy ra tranh chấp liên quan đến thừa kế, đặc biệt là thừa kế thế vị.
Trong khi đó, Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thừa kế thế vị: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống”.
Theo đó, để thừa kế thế vị thì mối quan hệ giữa người để lại di sản và người thừa kế thế vị phải là quan hệ “ông – cháu”.
Vấn đề vướng mắc là: Có thể đương nhiên coi người được nhận nuôi trở thành “cháu” của cha mẹ người nuôi dưỡng không? Các điều luật đã không có quy định cụ thể “cháu” ở đây có bao gồm cả người được nhận nuôi hay không và khi thừa kế phát sinh thì giữa người con nuôi và cha mẹ đẻ (hoặc cha mẹ nuôi) của người nuôi có được thừa kế di sản của nhau và thừa kế thế vị hay không?
Hiện nay, trong cả Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Nuôi con nuôi 2010 đều không có khái niệm về cháu nuôi. Hiện nay, pháp luật chỉ đặt ra quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
Đồng thời, theo quy định về các hàng thừa kế nêu tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, cháu nuôi không thuộc một trong các hàng thừa kế sau đây:
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Căn cứ các hàng thừa kế này, cháu nuôi không thuộc một trong các hàng thừa kế của ông, bà là cha mẹ nuôi của người này. Tuy nhiên, cháu nuôi vẫn có thể được hưởng thừa kế từ ông bà nuôi trong trường hợp sau đây:
– Hưởng theo di chúc: Nếu ông bà nuôi chỉ định người cháu nuôi được hưởng thừa kế trong di chúc hợp pháp của mình thì người cháu sẽ được hưởng phần di sản này.
– Hưởng theo thế vị: Theo Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được hưởng thừa kế thế vị. Theo đó, căn cứ Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015, thừa kế thế vị được quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015.
Căn cứ quy định này, nếu người con nuôi chết trước hoặc cùng thời điểm với cha mẹ nuôi thì cháu nuôi sẽ được hưởng phần di sản thừa kế của ông bà nuôi mà lẽ ra người con nuôi kia được hưởng.
Như vậy, cháu nuôi được hưởng thừa kế thế vị và hưởng thừa kế theo di chúc (nếu có) từ phần di sản của ông bà nuôi.
Bạn cần bảo vệ quyền thừa kế hợp pháp của mình, hãy liên hệ ngay với Công ty Luật TNHH KHD – 0965.67.9698 để được tư vấn tận tình. Hãy để chúng tôi trở thành người đồng hành tin cậy của bạn trên hành trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp./.
