Khi vợ, chồng còn sống thì việc chấm dứt quan hệ hôn nhân là bằng việc ly hôn, kể từ ngày bản án hoặc quyết định cho ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Vậy vấn đề được đặt ra là khi vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì quan hệ hôn nhân giữa vợ, chồng có chấm dứt không? Tài sản của vợ chồng trong trường hợp này sẽ được giải quyết như thế nào và pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành quy định ra sao?
Luật sư sẽ giúp bạn tìm hiểu chi tiết qua bài viết dưới đây.
Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
Điều 65 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về thời điểm chấm dứt hôn nhân như sau:
Điều 65. Thời điểm chấm dứt hôn nhân
Hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết.
Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
Các trường hợp Tòa án tuyên bố một người đã chết được quy định tại Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Điều 71. Tuyên bố chết
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
Điều 66. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Theo đó, khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì người còn lại có quyền quản lý di sản của người chết và có quyền yêu cầu hạn chế phân chia di sản trong một số trường hợp, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, quyền quản lý di sản
Theo đó, khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà những người thừa kế chưa yêu cầu chia di sản, chưa xác định được người thừa kế hoặc có căn cứ tạm hoãn chia di sản thì người vợ hoặc chồng còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
Người vợ hoặc chồng quản lý di sản có nghĩa vụ: bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác; thông báo về di sản cho những người thừa kế; bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ mà gây ra thiệt hại; giao lại tài sản theo yêu cầu của người thừa kế. Bên cạnh đó, người quản lý di sản có quyền được sử dụng di sản nếu được những người thừa kế đồng ý và được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
- Thứ hai, quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản:
Về nguyên tắc, thời điểm người có tài sản chết là thời điểm mở thừa kế. Kể từ thời điểm này, những người thừa kế có quyền yêu cầu chia di sản. Tuy nhiên, để đảm bảo ổn định cuộc sống của bên vợ hoặc chồng còn sống, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cũng quy định trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về
Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:
- Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;
- Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.
