Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người chết sang cho những người còn sống. Thừa kế có hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế thế vị là một trường hợp đặc biệt, phát sinh trong trường hợp người ở hàng thừa kế sau (người thừa kế thế vị) thay thế vị trí của người ở hàng thừa kế trước (người được thế vị) hưởng phần di sản mà người được thế vị được hưởng trong khối di sản của người để lại thừa kế nếu còn sống.
1. Đối tượng được thừa kế thế vị
Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể về thừa kế thế vị như sau:
Điều 652. Thừa kế thế vị
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Theo đó, thừa kế thế vị thực chất là việc con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ để nhận thừa kế di sản từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, hoặc cụ nội, cụ ngoại, nếu bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với những người nói trên.
Ngoài Điều 652 nêu trên, Bộ luật Dân sự 2015 còn dành Điều 653 quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi:
Điều 653. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.
Điều 654 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế:
Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.
Theo các quy định này thì con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau; con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau, nếu đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 651, Điều 652 BLDS 2015.
Như vậy, theo quy định tại các điều luật nêu trên thì hiện nay pháp luật Việt Nam quy định chỉ có hai đối tượng được hưởng thừa kế thế vị là “cháu” hoặc “chắt” của người để lại di sản.
2. Điều kiện hưởng thừa kế thế vị
Một là, con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản (cháu được thừa kế thế vị); cháu cũng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản (chắt được thừa kế thế vị).
Như vậy, điều kiện đầu tiên làm phát sinh quan hệ thừa kế thế vị đó là phải xảy ra sự kiện cha hoặc mẹ của cháu hoặc của chắt chết trước hoặc chết cùng vào một thời điểm với ông, bà (nội, ngoại) hoặc các cụ (nội, ngoại).
Hai là, những người thừa kế thế vị phải là người có quan hệ thuộc hàng thừa kế thứ nhất và người thế vị luôn ở vị trí đời sau, tức là chỉ có con thế vị cha, mẹ để hưởng di sản của ông bà hoặc các cụ chứ không xảy ra trường hợp cha, mẹ thế vị con để hưởng di sản của ông bà hoặc các cụ.
Ba là, giữa họ phải có quan hệ huyết thống về trực hệ (chỉ có con đẻ thay thế vị trí của cha, mẹ đẻ).
Bốn là, người thừa kế thế vị phải còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Xuất phát từ lý luận người đã chết không thể có năng lực chủ thể để tham gia vào bất kỳ quan hệ pháp luật nào, do đó, pháp luật Việt Nam đã quy định người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế thì người đó phải là người đã thành thai trước khi người để lại di sản chết và phải sinh ra còn sống sau thời điểm mở thừa kế.
Năm là, khi còn sống, người cha hoặc mẹ của người được thế vị phải có quyền được hưởng di sản của người chết (nếu bị tước hoặc bị truất quyền hưởng di sản thừa kế thì con hoặc cháu của những người này không thể thế vị).
Sáu là, bản thân người thế vị không bị tước quyền thừa kế theo khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015.
3. Các trường hợp thừa kế thế vị
3.1. Cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông, bà
Đây là trường hợp cha đẻ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông, bà nội thì khi ông, bà nội chết, con sẽ thay thế vị trí của cha để thừa kế từ di sản mà ông, bà nội để lại đối với phần di sản mà cha mình được hưởng nếu còn sống.
Trường hợp mẹ đẻ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với ông, bà ngoại thì khi ông, bà ngoại chết, con sẽ thay thế vị trí của mẹ để thừa kế từ di sản mà ông, bà ngoại để lại đối với phần di sản mà mẹ mình được hưởng nếu còn sống.
Ví dụ: A và B kết hôn với nhau sinh được C và D. C kết hôn với E sinh ra G và H. C chết năm 2010, A chết năm 2017, A chết năm 2017 không để lại di chúc. Những người thừa kế của A bao gồm B, C, D. Tuy nhiên, do C chết trước A nên các con của C là G và H sẽ thế vị nhận di sản này (con thay cha hưởng di sản của ông nội). Giả sử sau đó B chết, những người thừa kế của B là C và D, thì G và H tiếp tục được thế vị C để hưởng di sản của B (con thay cha hưởng di sản của bà nội).
Ngoài ra, thừa kế thế vị còn được xét trên tổng thể về sự đan xen giữa huyết thống với nuôi dưỡng, giữa người để lại di sản với con cháu của người đó nên khi xác định cháu có được hưởng thế vị hay không, cần theo 3 căn cứ sau:
Một là, nếu giữa các đời đều có quan hệ huyết thống (A sinh ra B và B sinh ra C) thì đương nhiên cháu sẽ được thế vị trong mọi trường hợp nếu có đủ các điều kiện trên.
Hai là, nếu quan hệ giữa các đời đều là nuôi dưỡng (A nhận nuôi B và B nhận nuôi C) thì đương nhiên thế vị không được đặt ra trong mọi trường hợp.
Ba là, nếu có sự đan xen cả huyết thống lẫn nuôi dưỡng giữa các đời thì cần xác định theo các trường hợp sau:
- Nếu quan hệ giữa đời thứ nhất với đời thứ hai là nuôi dưỡng nhưng quan hệ giữa đời thứ hai với đời thứ ba lại là huyết thống (A nhận nuôi B và B sinh ra C) thì được thừa kế thế vị. Trường hợp này cũng được áp dụng đối với con riêng của vợ, của chồng, nếu con riêng với mẹ kế, bố dượng được thừa nhận là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con;
- Nếu quan hệ giữa đời thứ nhất với đời thứ hai là huyết thống nhưng quan hệ giữa đời thứ hai với đời thứ ba lại là nuôi dưỡng (A sinh ra B và B nhận nuôi C) thì không đương nhiên được thừa kế thế vị, chỉ được thế vị nếu được người để lại di sản coi như cháu ruột.
3.2. Chắt thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của cụ
Để dễ hình dung, tác giả xin vẽ một sơ đồ sau: A………..B………..C………..D
Trong đó, giữa các chữ được nối liền với nhau bằng nét gạch ngang giữa là chỉ mối quan hệ giữa cha, mẹ và con; (A và B, B và C, C và D); giữa các chữ cách nhau một chữ là chỉ mối quan hệ giữa ông, bà với cháu (A và C; B và D); Giữa các chữ cách nhau hai chữ là chỉ mối quan hệ giữa cụ với chắt (A và D).
Theo quy ước trên, chúng ta xác định chắt được thừa kế thế vị của cụ trong các trường hợp sau:
Một là, trong trường hợp ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại (B) chết trước người để lại di sản là cụ (A), cha, mẹ (C) cũng đã chết trước người để lại di sản nhưng chết sau ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thì chắt (D) được hưởng phần di sản mà cha, mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết (C thế vị B để hưởng thừa kế di sản của A đối với phần di sản mà B được hưởng nếu còn sống và D lại thế vị C để hưởng di sản của A đối với phần di sản mà C được hưởng nếu còn sống).
Hai là, trong trường hợp ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại (B) chết trước người để lại di sản (A) , cha, mẹ (C) chết sau ông, bà nhưng chết cùng thời điểm với người để lại di sản (A) thì chắt (D) được hưởng phần di sản mà cha, mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Ba là, trường hợp ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại (B) chết trước người để lại di sản (A), cha, mẹ (C) chết sau ông, bà nhưng chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt (D) được hưởng phần di sản mà cha, mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Bốn là, trường hợp B không được hưởng di sản của A, nếu C chết trước A thì D cũng được thế vị C để hưởng thừa kế đối với di sản của A.
Năm là, trường hợp nếu có sự đan xen cả huyết thống lẫn nuôi dưỡng giữa các đời thì việc thừa kế thế vị của chắt được xét các trường hợp sau:
- Trường hợp con nuôi chết trước người để lại di sản là cha, mẹ nuôi, đồng thời con đẻ của người con nuôi cũng đã chết trước người để lại di sản (nhưng chết sau cha hoặc mẹ) thì cháu của người con nuôi đó (tức là chắt của người để lại di sản) được hưởng phần di sản mà cha mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết.
- Trong các trường hợp nếu xét về tính đan xen giữa huyết thống và nuôi dưỡng mà thấy rằng con của một người không đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ người đó thì thừa kế thế vị không được đặt ra.
Ví dụ: quan hệ giữa A, B, C, trong đó B là con đẻ của A, nhưng nếu C là con nuôi của B thì C không đương nhiên là cháu của A. Theo logic trên thì con của con nuôi của một người không đương nhiên trở thành chắt của cha, mẹ người đó. Hoặc, quan hệ giữa A, B, C, D, trong đó B là con của A nhưng C là con nuôi của B và D là con của C (kể cả con đẻ hoặc con nuôi) thì D không đương nhiên trở thành chắt của A.
Khi xác định thừa kế thế vị cần lưu ý các mối quan hệ:
- Nếu quan hệ giữa đời thứ nhất và đời thứ hai là nuôi dưỡng nhưng quan hệ giữa đời thứ hai và đời thứ ba lại là huyết thống (A nhận nuôi C, C sinh ra E) thì được thừa kế thế vị;
- Nếu quan hệ giữa đời thứ nhất và đời thứ hai là huyết thống nhưng quan hệ giữa đời thứ hai và đời thứ ba lại là nuôi dưỡng (A sinh ra C, C nhận nuôi E) thì không đương nhiên được thừa kế thế vị (E không đương nhiên là cháu của A);
- Nếu quan hệ giữa đời thứ nhất và đời thứ tư đan xen về quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng thì không đặt ra thừa kế thế vị vì các mối quan hệ là không đương nhiên (A nhận nuôi C, C sinh ra E, E nhận nuôi H thì H không đương nhiên là chắt của A).
- Con riêng của bố dượng, mẹ kế được thừa nhận là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì cũng được thừa kế thế vị.
Như vậy, quan hệ thừa kế thế vị không phải là thừa kế theo trình tự hàng nhưng hàng thừa kế lại là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị là một chế định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người thân thích nhất của người để lại di sản, tránh trường hợp di sản của ông, bà, cụ mà cháu, chắt không được hưởng lại để cho người khác hưởng.
Thừa kế thế vị chỉ phát sinh từ thừa kế theo pháp luật mà không phát sinh từ thừa kế theo di chúc. Nếu cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà hoặc cụ thì phần di chúc định đoạt tài sản cho cha, mẹ (nếu có di chúc) sẽ vô hiệu. Phần di sản đó được chia theo pháp luật và lúc này cháu (chắt) mới được hưởng thừa kế thế vị.
Bạn đang bối rối trước việc phân chia di sản thừa kế và bạn cần bảo vệ quyền thừa kế hợp pháp của mình, hãy liên hệ ngay với Công ty Luật TNHH KHD – 0965679698 để được tư vấn tận tình. Hãy để chúng tôi trở thành người đồng hành tin cậy của bạn trên hành trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp./.
